Việc các NHTW trên thế giới đang cố gắng duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm chống lại lạm phát liên tục tăng cao, đã gây ra tác dụng phụ là đẩy nền kinh tế giới đến bờ vực của suy thoái lớn. Các NHTW đã không lường trước được sự tồi tệ của lạm phát, khiến việc chống lạm phát trở nên chậm chễ. Giờ đây, FED và các ngân hàng khác trên toàn cầu đã công khai quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc chiến với sự leo thang của giá cả – mặc cho tổn thất của cuộc chiến này có thể kiến nền kinh tế bị tổn hại – thậm chí là suy thoái.
Nội dung
Cuộc đua xem ai có thể nâng lãi suất nhanh hơn
Theo thống kê của Bloomberg, đã khoảng khoảng 90 ngân hàng trung ương trên thế giới đã nâng lãi suất trong năm nay, và có quả nửa có một lần tăng lãi suất từ 0,75% trở lên. Họ tăng nhiều đến mức, nhiều chuyên gia kinh tế còn cho rằng đây là “một cuộc thi xem ai có thể nâng nhanh hơn”.
- Mỹ: Ngày 21/9, Fed nâng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm, tức là lên 3 – 3,25% từ mức 2,25 – 2,5% trước đó. Đây là đợt nâng lãi suất thứ 5 của FED kể từ khi NHTW này bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất vào tháng 3 năm nay và đây cũng là đợt tăng thứ 3 liên tiếp với mức tăng 0,75 điểm.
- Anh: Ngày 22/9, BOE nâng lãi suất cơ bản thêm 0,5 điểm phần trăm lên 2,25% từ mức 1,75% trước đó. Cùng với việc hạ lãi suất, BOE cho rằng nền kinh tế Anh đang suy thoái. Lạm phát tháng 8 của nước này giảm nhẹ về 9,9%, nhưng vẫn cao gấp gần 5 lần so với mục tiêu
- Thụy Điển: Ngày 22/9, Thụy Điển cũng tăng lãi suất tròn 1 điểm phần trăm, mạnh hơn dự báo, lên mức 1,75%, đồng thời cảnh báo sẽ tiếp tục nâng lãi suất trong 6 tháng tới. Lạm phát tháng 8 ở Thuỵ Điển là 9%, cao nhất 30 năm.
- Thụy Sĩ: Ngày 22/9, NHTW Thụy Sỹ (SNB) tăng lãi suất cơ bản 0,75 điểm, lên mức 0,5% từ mức âm 0,25% trước đó, chính thức chấm dứt kỷ nguyên lãi suất âm ở châu Âu. Động thái này diễn ra sau khi lạm phát ở Thụy Sỹ lên mức 3,5% trong tháng 8, mức cao nhất 3 thập kỷ.
- Philippines: tăng lãi suất 0,5 điểm phần trăm lên 4,25%, mức cao nhất kể từ tháng 8/2019. Từ tháng 5 đến nay, Philippines đã tăng lãi suất tổng cộng 2,25 điểm phần trăm, trong bối cảnh lạm phát trong 8 tháng đầu năm bình quân 4,9% và tỷ giá đồng Peso Philippines giảm xuống mức thấp nhất mọi thời đại so với USD.
- Indonesia: tăng lãi suất lần thứ hai trong hai tháng liên tiếp, với 0,5 điểm phần trăm, lên mức 4,25% – cao hơn dự báo của giới phân tích.
- Na Uy: tăng lãi suất 0,5 điểm phần trăm lên 2,25% – một động thái nằm trong dự báo trước đó của giới phân tích.
Kết quả là sự thắt chặt chính sách tiền tệ diễn ra trên diện rộng nhất trong 15 năm qua, chấm dứt kỷ nguyên tiền rẻ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Nhiều chuyên gia kinh tế và nhà đầu tư đã xem môi trường lãi suất siêu thấp như một “bình thường mới” và họ bừng tỉnh khi chính sách chuyển sang thắt chặt. Và hơn hết, theo nhiều chuyên gia kinh tế, thì chắc chắn sự thắt chặt sẽ không chỉ dừng ở đó.
Cùng với việc nâng lãi suất, các nhà hoạch định chính sách đưa ra những dự báo ảm đạm về triển vọng tăng trưởng kinh tế, thừa nhận rằng lãi suất càng tăng lên cao để chống lạm phát, rủi ro đối với tăng trưởng và việc làm sẽ càng lớn.
Tác dụng phụ của “liều thuốc” chống lạm phát
Trong cuộc họp báo ngày 21/9 sau khi Fed công bố nâng lãi suất, Chủ tịch Fed Jerome Powell khẳng định Fed “quyết tâm mạnh mẽ” kéo lạm phát xuống từ mức cao nhất trong 4 thập kỷ. Ông nói Fed sẽ “giữ vững việc này cho tới khi hoàn thành mục tiêu” cho dù thất nghiệp có thể tăng và nền kinh tế có thể rơi vào trì trệ.
Bà Isabel Schnabel – một thành viên Hội đồng Điều hành Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) – đã nói về “tỷ lệ hy sinh” khi đề cập đến mức độ mất mát sản lượng kinh tế cần thiết để đưa lạm phát về tầm kiểm soát. BOE dự báo đến cuối năm nay nền kinh tế Anh sẽ rơi vào suy thoái và có thể ở trong tình trạng đó cho tới năm 2024.
Hầu như không ai nghi ngờ về việc “liều thuốc” chính sách tiền tệ cho việc chống lạm phát sẽ gây ra thiệt hại cho tăng trưởng kinh tế. Câu hỏi đặt ra là thiệt hại sẽ lớn tới mức nào? Các nhà phân tích của BlackRock dự báo rằng việc đưa lạm phát về mức mục tiêu 2% của FED sẽ dẫn đến một cuộc suy thoái sâu và có thêm 3 triệu người thất nghiệp trong nền kinh tế Mỹ. Đối với khu vực đồng tiền chung châu Âu, việc đưa lạm phát về mục tiêu của ECB thậm chí có thể dẫn tới sự sụt giảm sâu hơn của nền kinh tế.
Một yếu tố làm gia tăng sự bấp bênh là độ trễ trước khi những đợt tăng lãi suất đã có bắt đầu có ảnh hưởng thực sự đến nền kinh tế. Bên cạnh đó là thành phần của lạm phát, với một bộ phận không nhỏ bắt nguồn từ cú sốc nguồn cung năng lượng và các cú sốc nguồn cung khác vốn dĩ nằm ngoài tầm kiểm soát của các ngân hàng trung ương.
Các nhà đầu tư sẽ không thoát khỏi ảnh hưởng từ chính sách tiền tệ thắt chặt. Thị trường chứng khoán Mỹ đã bán tháo trong phiên giao dịch ngày 21/9 sau khi Fed nâng lãi suất, với cú giảm hơn 1,7% của chỉ số S&P 500. Với phiên giảm này, S&P 500 đã mất hơn 10% điểm số trong vòng 1 tháng qua và đã trượt 21% kể từ mức đỉnh của 52 tuần. Trước đó, hôm 13/9, Dow Jones “bốc hơi” hơn 3,9% – đánh dấu phiên giảm tồi tệ nhất trong hơn 2 năm – sau khi Mỹ công bố báo cáo lạm phát tháng 8 “nóng” hơn so với dự báo.
Nhà kinh tế học Nouriel Roubini – CEO Công ty nghiên cứu kinh tế Roubini Macro Associates, người từng dự báo chính xác về cuộc khủng hoảng tài chính 2008, lần này ông cũng đưa ra dự báo rằng sẽ có một cuộc “suy thoái kéo dài và tồi tệ” sẽ xảy ra trên toàn cầu vào cuối năm nay, có thể kéo dài đến hết năm 2023. Khi lãi suất tăng và chi phí của việc vay nợ ngày càng lớn, “những gia đình, doanh nghiệp, ngân hàng và quốc gia có gánh nặng nợ nần lớn sẽ chết’”, Ông cho rằng việc đạt lạm phát mục tiêu 2% mà không gây ra những tổn thất cho nền kinh tế đã trở thành “nhiệm vụ bất khả thi” đối với FED.
Sai lầm phải trả khi đánh giá sai về lạm phát
Dự báo mà FED đưa ra sau cuộc họp ngày 20 – 21/9 cho thấy lãi suất năm 2022 có thể sẽ tăng thêm 1,25 điểm nữa, đưa mức lãi suất lên 4,25 – 4,5% vào cuối năm. Sau đó, lãi suất sẽ kết thúc năm 2023 ở mức 4,5-4,75%. Điều này có nghĩa là trong 2 cuộc họp còn lại của năm 2022, FED sẽ có một đợt tăng lãi suất 0,75 điểm phần trăm và một đợt nâng với bước nhảy 0,5 điểm phần trăm. Dĩ nhiên, nhiều khả năng FED sẽ không bắt đầu hạ lãi suất trong năm 2023 như kỳ vọng gần đây của thị trường.
Có thể đến một lúc nào đó, các NHTW sẽ giảm bớt sự cứng rắn để cứu vãn tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trọng tâm chính của họ hiện nay là tránh lặp lại sai lầm của thập niên 1970, khi các NHTW chuyển sang nới lỏng quá sớm vì lo kinh tế giảm sút, trong khi lạm phát chưa được kiểm soát. trong lúc chưa có dấu hiệu cho thấy lạm phát đã được kiểm soát, đã kéo theo một cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng. Mối lo này củng cố quyết tâm hiện nay của các THTW tiếp tục mạnh tay tăng lãi suất, vì họ tin rằng việc để cho lạm phát bám rễ sâu vào nền kinh tế có thể gây ra những tổn thất lớn hơn nữa về lâu về dài.
Sức ép phải nâng lãi suất đối với các NHTW càng lớn hơn bao giờ hết khi họ vốn dĩ đã bị chỉ trích vì đánh giá sai về áp lực giá cả trong đại dịch Covid-19. Sự chỉ trích này diễn ra bất chấp việc chiến tranh giữa Nga – Ukraine, một vấn đề không nằm trong khả năng kiểm soát của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ.
Quay lại năm 2021, ông Powell đã nói rằng cú sốc lạm phát chỉ là “tạm thời”, và bước sang năm 2022, ông cùng các quan chức FED phát biểu rằng trong cả năm nay, lãi suất chỉ cần tăng 0,75 điểm phần trăm. Nhưng tính đến thời điểm hiện tại, tổng mức tăng lãi suất của Fed đã lớn gấp 4 lần mức dự báo. Tương tự, tháng 11 năm ngoái, Chủ tịch ECB nói rằng khó có khả năng ECB phải tăng lãi suất trong năm 2022. Nhưng rồi đến tháng 9 này, chính ECB lại quyết định nâng lãi suất cơ bản của đồng Euro thêm 0,75 điểm và dự kiến tiếp tục có một đợt nâng tiếp theo vào tháng 10.
Sai lầm trong dự báo và sự chậm trễ trong phản ứng với lạm phát đặt các NHTW vào thế “bắt buộc phải thắng” trong cuộc chiến chống lạm phát, cho dù tổn thất có lớn như thế nào. “Uy tín là tất cả đối với các NHTW, và uy tín đó đã bị sứt mẻ bởi dự báo sai của họ về lạm phát“. Việc lấy lại uy tín là ưu tiên lớn nhất của họ lúc này, cho dù điều đó có đồng nghĩa với suy thoái kinh tế. – Chuyên gia kinh tế trưởng Rob Subbaraman của Ngân hàng Nomura cho biết khi chia sẻ với Bloomberg.
Có nhiều dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư cũng tin rằng kinh tế sẽ rơi vào suy thoái. Ví dụ như lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn ngắn đã tăng vượt lợi suất của trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn dài, với mức chênh lệch rộng nhất từng được ghi nhận kể từ năm 2000. Hiện tượng này được gọi là đường cong lợi suất đảo ngược – một chỉ báo đáng tin cậy về việc suy thoái kinh tế sắp xảy ra. Hoặc trong một cuộc khảo sát của Bank of America với các nhà quản lý quỹ, kết quả cho thấy thấy kỳ vọng về tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang ở gần mức thấp nhất mọi thời đại.
Một lý do dẫn tới mối lo ngại này là chính sách tiền tệ luôn có độ trễ. Khi chính sách tiền tệ thắt chặt, thị trường tài chính sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên, tiếp đó là nền kinh tế, rồi cuối cùng mới đến lạm phát. Bởi vậy, những đợt tăng lãi suất mạnh tay liên tiếp có thể trở nên “độc hại”.
Sẽ không dễ dàng để kiểm soát được lạm phát
“Việc hạ nhiệt lạm phát đòi hỏi thời gian. Nếu chỉ dựa vào lạm phát ở thời điểm hiện tại làm chỉ báo định hướng chính sách tiền tệ, các NHTW sẽ bị muộn trong việc dừng chu kỳ tiền tệ thắt chặt” – Harris của Bank of America nhận định. Ông cũng dự báo kinh tế Anh và châu Âu sẽ rơi vào suy thoái trong quý 4 năm nay khi giá năng lượng tăng vọt gây ra tổn thất nghiêm trọng trong mùa đông. Về kinh tế Mỹ, ông dự báo suy thoái sẽ xuất hiện trong năm 2023.
Hiện tại, kinh tế Mỹ, đặc biệt là thị trường việc làm của nước này vẫn đang duy trì ở sự vững vàng tới mức đáng kinh ngjac. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng điều này sẽ càng khiến FED phải hành động mạnh tay hơn nữa để kéo nhu cầu xuống. “Lạm phát và thị trường lao động đã trụ vững trước lãi suất tăng tốt hơn so với dự tính của FED. Bởi thế, Fed sẽ còn phải tăng lãi suất lên cao hơn nữa”, ông Donald Kohn – cựu Phó chủ tịch Fed nhận định.
Việc tăng lãi suất đã trở thành việc gần như “không phải nghĩ” đối với các NHTW, vì lạm phát quá cao, thị trường việc làm đang mạnh, và lãi suất đang ở mức rất thấp. Tuy nhiên, sự đánh đổi đang ngày càng trở nên lớn hơn khi mức lãi suất cao hơn bắt đầu gây sứt mẻ cho những nền kinh tế vốn dĩ đang gồng mình gánh chịu những hệ quả của đại dịch và cuộc chiến tranh ở Ukraine. Chi phí của việc vay nợ ở nhiều nền kinh tế gồm cả Mỹ đang chuyển từ rẻ thành đắt. Đồng USD tăng giá mạnh làm gia tăng gánh nặng đối với các nền kinh tế mới nổi có mức nợ ngoại tệ lớn. Dòng chảy khí đốt Nga giảm xuống mức tối thiểu đặt châu Âu trước nguy cơ “stagflation” – tăng trưởng trì trệ kết hợp lạm phát cao.
Các nhà hoạch định chính sách hiện tại vẫn mong rằng họ có thể “căn chỉnh” sao cho tăng trưởng giảm tốc ở mức vừa đủ để kéo lạm phát về tầm kiểm soát, nghĩa là đưa nền kinh tế “hạ cánh mềm”. Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng việc tập trung vào mục tiêu chống lạm phát làm gia tăng khả năng khiến nền kinh tế “hạ cánh cứng”.
*** Hạ cánh cứng là thuật ngữ trong kinh tế hiện nay rất hay gặp, cụ thể thì đây là thuật ngữ chỉ sự xuống dốc của nền kinh tế đang phát triển nhanh bị tụt dốc ***
Toan tính của các NHTW trở nên phức tạp hơn vì lạm phát một phần có nguyên nhân từ giá năng lượng tăng cao mà đây lại là vấn đề không thuộc phạm vi kiểm soát của họ. Điều này đặc biệt đúng ở châu Âu, nhưng cũng không thể ngăn ECB và BOE tăng lãi suất.
“Ở thời điểm hiện tại, dường như các NHTW trên toàn cầu đang hành động theo cùng một hướng và điều này khiến mức độ rủi ro càng lớn hơn. Từ năm 1980 đến nay, nền kinh tế thế giới tăng trưởng bình quân mỗi năm 3,4%. Hiện tại, với chính sách tiền tệ thắt chặt cộng thêm những trở ngại do dịch bệnh và chiến tranh, có thể khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể giảm về ngưỡng khoảng 1%” – Maurice Obstfeld, một cựu chuyên gia kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
Ông Kevin Warsh, một cựu Thống đốc Fed kết luận: “Chúng ta đang có tất cả những yếu tố dẫn tới một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu”.
– Tổng hợp từ Bloomberg, Vneconnomy –