Cơn sốt lạm phát ở Mỹ đang ngày càng tăng phi mã đã khiến FED đã phải áp dụng phương án tăng lãi suất liên tục nhằm kiềm chế điều này. Hiện tại, chưa rõ những nỗ lực của FED có mang lại những hiệu quả như mong đợi hay không. Nhưng trước mắt, nó ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế toàn thế giới và nguy cơ suy thoái ở Mỹ đang hiện lên khá rõ. Tuy nhiên, biện pháp thắt chặt lãi suất lần này của FED sẽ không gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Nội dung
Các nền kinh tế đang phát triển đang “gồng mình chịu trận”
Việc FED cùng những ngân hàng TW của các nền kinh tế lớn như châu Âu, Nga, Canada đồng loạt tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát đã khiến nhiều nước đang phát triển cũng bắt buộc phải tăng lãi suất theo. Và sự “chạy đua lãi suất” này đã gây ra một bất lợi kép cho nền kinh tế của những quốc gia đang phát triển. Bởi vì:
Thứ 1: Lãi suất cao sẽ làm tăng gánh nặng nợ nần, đặc biệt những nước đã vay nợ thêm nhiều để vượt qua đại dịch Covid-19. Khi lãi suất tăng, các quốc gia sẽ mất nhiều chi phí hơn khi vay những khoản mới để trang trải nợ cũ. Ví dụ: El Savldor, Ghana, Kenya, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ đều đang phải đối mặt với vấn đề này.
Theo số liệu của IMF, 60% số quốc gia thu nhập thấp trên thế giới hiện đang ở trong tình trạng căng thẳng nợ (debt distress) hoặc gần rơi vào trạng thái này. Con số nợ mà các nước này đang có khả năng vỡ nợ là 455,6 tỷ USD.
Thứ 2: FED tăng lãi suất sẽ dẫn tới sự thoái vốn khỏi các nền kinh tế khác, trong đó có các nước đang phát triển, bởi vì nhà đầu tư muốn chuyển vốn tới Mỹ để tìm kiếm tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Số liệu Viện Tài chính quốc tế (IIF) công bố gần đây, các thị trường mới nổi đang bị rút vốn 5 tháng liên tiếp, với tổng cộng, 39,3 tỷ USD đã bị rút ròng, kể từ tháng 3 – lúc mà FED bắt đầu tăng lãi suất.
Thứ 3: FED tăng lãi suất cũng khiến cho các nền kinh tế mới nổi sẽ khó khăn hơn trong công cuộc phục hồi hậu quả của Covid-19. Ngoài ra, lạm phát tăng cao và tăng trưởng sụt giảm đang là mối lo kép không chỉ của các nền kinh tế phát triển mà cả các nước mới nổi và đang phát triển.
Việc Fed tăng lãi suất đã khiến đồng USD tăng khoảng 10% từ đầu năm đến nay so với các đồng tiền chủ chốt khác. Nhưng các nền kinh tế đang phát triển thì đó không phải điều tốt. USD tăng giá đồng nghĩa với sự mất giá đồng nội tệ của các nước này, khiến sức ép lạm phát càng thêm lớn, nhất là các đất nước phải nhập khẩu hàng hóa thiết yếu như xăng dầu và lương thực.

“Bóng ma” suy thoái có phải đang gõ cửa Mỹ?
Với việc lạm phát đạt đỉnh cùng hành động tăng lãi suất liên tục của FED, đã có nhiều tranh cãi về việc liệu kinh tế Mỹ có suy thoái hay không? Số liệu GDP quý 2 của Mỹ mới công bố cho thấy nền kinh tế Mỹ giảm 0,9% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi trước đó quý 1 đã giảm 1,9%. Việc 2 quý giảm liên tiếp đã “chạm gần đến” định nghĩa về suy thoái, nhưng Mỹ vẫn chưa đưa ra tuyên bố chính thức, vì các quan chức Mỹ cho rằng còn nhiều yếu tố khác để đánh giá xem có phải suy thoái hay không, chứ không phải chỉ căn cứ vào biến động GDP.

Nhiều chuyên gia ở Mỹ cho rằng Mỹ không suy thoái, bởi thị trường việc làm ở Mỹ vẫn đang phát triển rất mạnh. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ đã phát đi những tín hiệu đáng ngại. Ví dụ trong một cuộc khảo sát của hãng tin CNBC gần đây, niềm tin của các chủ DN nhỏ ở Mỹ đã giảm xuống mức thấp kỷ lục, tới 57% chủ doanh nghiệp đều cho rằng suy thoái bắt đầu đầu rồi.
Tuy nhiên không thể phủ nhận, dù có suy thoái hay không thì nền kinh tế Mỹ đang thực sự giảm tốc độ. Kể từ tháng 4 đến nay, IMF đã hai lần hạ dự báo tăng trưởng kinh tế Mỹ. IMF đã dự đoán kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 2,3% trong năm 2022 và 1% năm 2023, so với mức tăng 5,7% đạt được trong năm 2021.
Một bài bình luận trên tờ The Washington Post cho rằng, biện pháp giảm lạm phát bằng cách nâng lãi suất của Fed sẽ không mang lại tác dụng lớn, bởi lạm phát hiện tại nó bắt nguồn từ một số nguyên nhân mà công cụ lãi suất không thể kiểm soát. Điển hình:
-
Thứ 1: Đại dịch Covid-19 đã gây đảo lộn hoạt động SX trên toàn cầu, và sẽ cần nhiều năm trời để cân bằng lại.
-
Thứ 2: Chiến tranh Nga – Ukraina đã đẩy giá các hàng hóa cơ bản, đặc biệt là giá năng lượng và lương thực-thực phẩm tăng cao.
-
Thứ ba: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 2008 vẫn còn dai dẳng cho tới ngày nay. Sau khủng hoảng, lĩnh vực phát triển nhà ở tại Mỹ đã không được đầu tư đúng mức. Đến khi nền kinh tế phục hồi mạnh trong năm 2021, nước Mỹ rơi vào tình trạng thiếu nhà ở nghiêm trọng.
-
Thứ 4: Các doanh nghiệp Mỹ đã thu hẹp hoạt động trong đại dịch, dẫn tới tình trạng các công ty không thể mở rộng kịp để đáp ứng nhu cầu tăng vọt.
Về lý thuyết, có hai chiến lược để chống lạm phát: một là (1) tạo ra đủ hàng hoá và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu, hoặc (2) khiến nhu cầu giảm xuống cho cân bằng với nguồn cung. Hiện tại, FED đang làm cách thứ (2).
Tức là, lãi suất tăng khiến cho mọi thứ trở nên đắt đỏ ⇒ các cá nhân, doanh nghiệp vay tiền sẽ phải trả lãi cao hơn ⇒ nhu cầu chi tiêu và đầu tư ít đi. Về cơ bản, cách này có thể phát huy tác dụng kiềm chế giá cả, nhưng sẽ phải mất vài nằm để thành công.
Trước mắt, việc Fed nâng lãi suất để chống lạm phát về cơ bản sẽ khiến người Mỹ nghèo đi. Ngoài ra, lãi suất tăng sẽ gây thiệt hại cho thị trường lao động của Mỹ, khiến tỷ lệ thất nghiệp ở nước này tăng lên.
Liệu có xảy ra khủng hoảng nợ toàn cầu?
Có một tin vui là nhiều chuyên gia đều phân tích rằng chiến dịch tăng lãi suất của FED ít có khả năng gây ra một cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu. Nó sẽ không giống như hồi thập niên 1980 – lãi suất tăng cao khiến nhiều nền kinh tế trên thế giới suy sụp.
Bởi vì, thị trường tài chính và dòng vốn đã thay đổi nhiều hơn so với trước đây, khi vai trò của Mỹ đã giảm bớt, còn vai trò của Trung Quốc cùng một số quốc gia khác đang tăng lên.
Ảnh hưởng từ sự thắt chặt chính sách của FED có thể được cảm nhận rõ nhất ở các nước đang phải ứng phó với lạm phát cao và các điều kiện tài chính thắt chặt do sức ép trong và ngoài nước. Nhóm này bao gồm những nước ở khu vực Trung- Đông Âu và tiểu sa mạc Sahara ở châu Phi. Những quốc gia này bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi cú sốc giá xăng dầu và lương thực do chiến tranh Nga – Ukraine. Còn những nền kinh tế lớn như Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ có thể ít bị ảnh hưởng bởi việc tăng lãi suất của FED. Bởi vì, NHTW ở các quốc gia lớn này có độ tin cậy cao, họ dựa vào dữ liệu kinh tế để tạo ra chính sách, và có nhiều dự trữ ngoại hối, cũng như tỷ lệ vay nợ ngoại tệ hiện ở mức rất thấp.
Mặc dù vậy, tỷ lệ nợ so với GDP vẫn tiếp tục tăng lên ngay cả ở những nước có nền kinh tế ổn định. Đây chính là một trong những điều đáng lo ngại đối với ổn định tài chính toàn cầu. Không ai cho rằng FED sẽ lùi bước trong chiến dịch chống lạm phát vì nghĩ đến lợi ích của nền kinh tế toàn cầu, trừ phi việc đó phục vụ cho lợi ích của Mỹ.
Trước khi xảy ra đại dịch, Chủ tịch Fed Jerome Powell thừa nhận rằng FED đã chú ý nhiều hơn đến việc chính sách của mình có ảnh hưởng như thế nào đến các quốc gia khác. Quan điểm này của ông Powell được xem như một “cuộc cách mạng” so với hồi thập niên 1980, khi Chủ tịch Fed thời đó là Paul Volcker, khi đẩy lãi suất tăng cao chóng mặt để chống lạm phát ở Mỹ và sau đó nói rằng “châu Phi thậm chí không nằm trên màn hình radar của tôi”.
TÓM LẠI:
- FED tăng lãi suất ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của các nước đang phát triển.
- Các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ… ít bị ảnh hưởng bởi chính sách nay.
- Quan chức Mỹ hiện cho rằng kinh tế Mỹ chưa suy thoái, vì nhu cầu lao động vẫn rất lớn.
- Hơn 57% các doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ lại cho rằng suy thoái sắp bắt đầu.
- Khó xảy ra tình trạng khủng hoảng nợ toàn cầu như trong quá khứ, bởi hiện tại sự thống trị của Mỹ trên toàn cầu đã giảm bớt.
- Chính sách tăng lãi suất của Mỹ đang hướng vào mục đích “giảm cầu”. Tuy nhiên nó phải mất vài năm nữa mới thấy được hiệu quả.